Khoa học và nghệ thuật Hậu_kỳ_Trung_Cổ

Trong thế kỷ 14, sự thống trị của triết học kinh viện bị thách thức bởi khuynh hướng chủ nghĩa nhân văn. Mặc dù khởi đầu chỉ là một nỗ lực để phục hồi các ngôn ngữ cổ đại, khuynh hướng này đã dẫn tới những tiến bộ trong các ngành khoa học, nghệ thuậtvăn học. Nó được tiếp lửa bởi những học giả Byzantine chạy sang phía tây tìm nơi trú ẩn sau sự sụp đổ của thành Constantinopolis vào năm 1453.[107]

Trong khoa học, những ý tưởng của các tác giả uy tín thời cổ đại như Aristotle lần đầu tiên được đưa ra bàn cãi sau một thời gian dài được mặc nhiên xem là chân lý. Mặc dù cuộc Phục hưng trong thế kỷ 15 chỉ mang tính địa phương, chủ yếu là ở các thành phố tự do ở Bắc Italy, nhưng các tiến bộ về nghệ thuật còn diễn ra ở nhiều nơi xa hơn về phía bắc, cụ thể là Hà Lan.

Phát minh máy in của Johann Gutenberg được xem là một trong những thành tựu công nghệ có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến lịch sử.

Triết học, khoa học và công nghệ

Trường phái triết học thống lĩnh trong thế kỷ 13 là học thuyết của Thomas Aquinas dung hòa giữa tư tưởng Aristotle và thần học Công giáo.[108] Các tư tưởng ngoài luồng đều có thể bị xem là dị giáo. Một giải pháp tiến bộ được William xứ Ockham đưa ra, đó là phải tách biệt rõ ràng giữa thế giới của lý trí và thế giới của niềm tin. Ockham đề ra nguyên lý Occam, trong đó một lý thuyết đơn giản sẽ được ưu tiên hơn một lý thuyết phức tạp, và phải tránh suy đoán về các hiện tượng không quan sát được.[109]

Cách tiếp cận mới này giải phóng những suy xét khoa học khỏi những sự hạn chế giáo điều của tư tưởng Aristotle và mở đường cho những phát triển mới, đặc biệt là trong lĩnh vực nghiên cứu lý thuyết chuyển động với Jean Buridan, Nicole OresmeCác nhà tính toán của Oxford. Buridan đề ra lý thuyết về sức đẩy, một bước quan trọng để tiến tới khái niệm quán tính về sau này.[110] Những công trình của các học giả này đã chuẩn bị trước cho thuyết lấy mặt trời làm trung tâm của Nicolaus Copernicus.[111]

Các phát minh công nghệ trong thời kỳ này, dù là được nghiên cứu ở châu Âu hay du nhập từ Ả RậpTrung Quốc, đều có những ảnh hưởng to lớn lên chính trị và xã hội, cụ thể là thuốc súng, máy inla bàn. Thuốc súng đã làm thay đổi quân đội, việc in ấn không chỉ đã giúp sức cho phong trào Kháng Cách mà ở góc nhìn rộng hơn thì nó đã đưa tới cho mọi người cơ hội được tiếp cận với kiến thức, còn la bàn đã giúp nhiều cho việc hàng hải để mở ra một kỷ nguyên thám hiểm và chinh phục thuộc địa sau này.[112] Một số phát minh khác có tác động lớn hơn đến đời sống hàng ngày như mắt kínhđồng hồ chạy bằng sức nặng.[113]

Nghệ thuật thị giác và kiến trúc

Tiền thân của nghệ thuật Phục hưng có thể được thấy ở các tác phẩm của Giotto vào đầu thế kỷ 14. Giotto là họa sĩ đầu tiên từ thời cổ đại cố gắng tái hiện lại hiện thực ba chiều và thể hiện những cảm xúc đích thực của con người.[114] Tuy nhiên những tiến bộ quan trọng nhất thì phải chờ đến thế kỷ 15 ở thành phố Florence. Sự bảo trợ mạnh tay của tầng lớp thương nhân (như gia đình Medici) đã giúp nghệ thuật có cơ hội phát triển.[115]

Tập tin:Giotto - Scrovegni - -36- - Lamentation (The Mourning of Christ).jpgBức tranh Sự than khóc của Giotto thể hiện không gian ba chiều.

Thời kỳ này đã chứng kiến nhiều tiến bộ về kỹ thuật như cách kẻ đường dựng hình của MasaccioBrunelleschi.[116] Qua nghiên cứu giải phẫu cơ thể người, đi đầu là Donatello, đã tạo ra độ hiện thực cao hơn cho các tác phẩm.[117] Khi trung tâm của phong trào Phục hưng chuyển về Rome, nó lên tới cực điểm với các bậc thầy như Leonardo da Vinci, MichelangeloRaphael.[118] Các ý tưởng Phục hưng ở Italy sau đó vượt dãy Alps để tới phía bắc, cụ thể là Các nước vùng thấp với Jan van Eyck là nghệ sĩ tiêu biểu.[119] Mặc dù vậy thì hội họa ở Hà Lan vào thời kỳ này vẫn chú trọng vào bố cục và bề mặt hơn là những kết cấu lý tưởng hóa của Italy.[120]

Về mặt kiến trúc, các nước phía Bắc châu Âu vẫn sử dụng chủ yếu là kiến trúc Gothic,[121] trong khi ở Italy, một hướng đi mới đã được mở ra và được truyền cảm hứng từ các ý tưởng cổ đại. Những công trình tiêu biểu của thời này gồm có Santa Maria del Fiore ở Florence với tháp đồng hồ của Giotto, cổng rửa tội của Ghiberti và mái vòm nhà thờ của Brunelleschi.[122]

Văn học

Tiến bộ quan trọng nhất trong văn học giai đoạn cuối Trung Cổ là việc sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ (nhưng điều này không có nghĩa là quay lưng hoàn toàn với tiếng Latinh).[123] Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể tới như Thần khúc (La Divina Commedia) của Dante Alighieri, Decameron của Giovanni BoccaccioCanzoniere của Petrarch.[124][125][126] Ba tác gia nói trên đã tạo ra hệ ngôn ngữ Tuscan làm nền tảng cho tiếng Italy hiện đại.[127] Phong cách văn học mới này lan đến Pháp (với Eustache DeschampsGuillaume de Machaut),[128] Anh (với Geoffrey Chaucer),[129] Bohemia, Byzantine, Baltic và những vùng của người Slavs.[130]

Âm nhạc

Âm nhạc là một phần quan trọng của cả nền văn hóa thế tục và tôn giáo, và được giảng dạy như một nghệ thuật trong các trường đại học.[131] Từ năm 1330 xuất hiện trường phái phức điệu, một sự kết hợp phức tạp hơn của các âm sắc đơn lẻ.[132] Một số nhà soạn nhạc tiêu biểu trong thời kỳ này là Philippe de Vitry, Guillaume de Machaut, Giovanni da Cascia, Jacopo da Bologna và Francesco Landini.[133][134]